hay rụng lá về mùa đông. Thu hoạch vỏ thân vào tháng 3-6. Cạo bỏ lớp vỏ bần, phơi khô, hoặc sấy khô. Khi sử dụng, rửa sạch, ủ mềm, thái mỏng, phơi khô, tẩm rượu sao khô hoặc sao cháy. Đối tượng hóa học: Vỏ thân chứa 1,6% berberin; còn có các alcaloid khác là palmatin, magnoflorin, jatrorrhizin, phellodendrin, menispermin, candicin. Bên cạnh đó còn có các hoạt chất đắng obakunon, obakulacton, và các dinh dưỡng khác: b-sitosterol và campesterol. Đặc tính vị, tác dụng: Vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, táo thấp, giải độc. Tăng lên tiêu hoá, trị hoàng đản do viêm đường mật: Hoàng bá 14g, Chi tử 14g, Cam thảo 6g, các vị sắc sử dụng. Di tinh, đái đục: Hoàng bá sao 640g, Vỏ hến nung 640g, tán nhỏ mỗi lần uống 1 thìa, ngày 2 lần. Lở đường miệng, loét lưỡi: Hoàng bá cắt nhỏ, ngậm, có nguy cơ nuốt nước hoặc nhổ đi.
Đọc thêm: [You must be registered and logged in to see this link.]
Từ phòng của Tiêu công công đi ra, Đỗ Văn Hạo thấy chính mình nhẹ nhõm đi nhiều, hắn đem theo Hạ Cửu Bà đi đến tẩm cung của Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thái Hậu Cao Thị là vợ tôi của Hoàng Đế Tống Anh Tông, là mẹ của Hoàng Đế đương triều Tống Thần Tông. Địa vị tôn quý của Hoàng Thái Hậu chỉ kém mỗi Thái hoàng Thái hậu Tào Thị (vợ của Tống Nhân Tông) mà thôi. Hắn đứng ngoài tẩm cung của Hoàng Thái Hậu chờ thông báo khá lâu, mới thấy một cung nữ chạy ra bẩm báo, rằng Hoàng Thái Hậu trong đối tượng khó chịu không tiếp khách được. Cung nữ cười khổ đáp: “Bẩm đại nhân, chứng bệnh này của nương nương cũng không phải là ngày một ngày hai, mà đã có được mấy năm nay Tiếp đó. Đỗ Văn Hạo hét lớn: “Nương nương của các ngươi kể như vậy, thì các ngươi cũng nghe như vậy sao? Nương nương bị đau chứ có phải các ngươi mắc phải đau đớn đâu, ta nhắc vậy không đúng sao?
Tiếng hét của hắn cũng khá to, làm cho mấy cung nữ nơi đây cũng phải run đối tượng vì sợ, lắp bắp quỳ xuống nói: “Nô tỳ biết tội rồi! Các ngươi đi trước dẫn đường cho bổn quan đi thăm khám cho Hoàng Thái Hậu nương nương, mau lên! Cung nữ vừa đứng nói chuyện đối với Đỗ Văn Hạo, bị hắn dọa sợ đến cứng cả trường hợp lại, run lẩy bẩy đi trước dẫn đường, xuyên qua một đại đường đến một cái khuôn viên. Đỗ Văn Hạo đứng đây cũng loáng thoáng nghe được tiếng kêu gào rên rỉ đau của một nữ giới từ bên trong truyền ra. Tiếng kêu rên cứ âm ỉ không ngừng, cộng với đó là tiếng rơi loảng xoảng của mấy đồ sành sứ. Vội vàng hỏi cung nữ: “Có chuyện gì tiếp diễn vậy? Cung nữ đáp: “Nương nương tới kỳ kinh nguyệt gặp phải đau bụng kinh, do đau đớn quá nên mới như vậy!
Đỗ Văn Hạo quay đầu ra bảo với Hạ Cửu Bà: “Hạ đại nhân, nương nương gặp phải đau đớn dữ dội như vậy, bà cùng cung nữ vào xem tình hình như thế nào. Hạ Cửu Bà cúi người đáp lễ, bà ta là khách liên tiếp của tẩm cung này, thường tới đây xem căn bệnh cho nương nương. Được một lúc, thì Hạ Cửu Bà đi ra, hướng về phía Đỗ Văn Hạo bẩm báo: “Thưa đại nhân, đây là chứng bệnh cũ lâu năm của nương nương, tới ngày kinh nguyệt thì bụng bị chướng, đau nhức. Vậy ngươi mau mau kiểm tra nhanh lên, thăm khám xong Rồi đi luôn đi, Ối đau đớn quá! Đỗ Văn Hạo thấp giọng nói: “Nếu nương nương đau đớn như vậy, xin nương nương cho phép vi thần châm cứu cho nương nương để suy giảm đau, Rồi Rồi mới có cảm giác bệnh, được không?
Hoàng bá thường Hoàng nghiệt - Phellodendron amurense Rupr., thuộc họ Cam - Rutaceae. Mô tả: Cây gỗ cao 10-25m thường hơn, phân cành khá nhiều. Vỏ thân dày, sần sùi, màu nâu xam xám ở mặt ngoài, màu vàng tươi ở mặt trong. Lá kép lông chim lẻ, bao gồm 5-13 lá chét hình trứng thuôn thường hay hình bầu dục, dài 5-12cm, rộng 3-4,5cm, màu lục sẫm ở mặt trên, màu lục nhạt và có lông mềm ở mặt dưới. Hoa đơn đặc tính, màu vàng lục, mọc thành chuỳ ở đầu cành và ở ngọn thân. Quả hình cầu khi chín màu tím đen, có 2-5 hạt. Cơ quan dùng: Vỏ thân hoặc vỏ cành - Cortex Phellodendri, thường hay gọi là Hoàng bá. Nơi sống và thu hái: Cây của vùng Đông Bắc Á Châu, được trồng không ít ở Trung Quốc và Nhật Bản. Ta di thực vào trồng từ cuối một vài năm 1960 ở Lào Cai (Sa Pa), Lai Châu (Sìn Hồ), Vĩnh Phú (Tam Đảo) và Lâm Đồng (Đà Lạt). Cây ưa khí hậu mát vùng núi cao từ 1300m trở lên.