I. BỆNH TAY – CHÂN – MIỆNG
Bệnh Tay - Chân - Miệng (Hand - Foot - Mouth Disease - HFMD) là một bệnh thường gặp ở nhũ nhi và trẻ em. Bệnh thường được đặc trưng bởi sốt, đau họng và nổi ban đỏ có bọng nước ở miệng, lòng bàn tay.
1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh Tay - Chân - Miệng do virus thuộc nhóm virus đường ruột ( poliovirus, coxsackievirus, echovirus…) gây nên. Tác nhân thường gặp nhất là coxsackievirus A16, đôi khi do enterovirus 71 và các virus đường ruột khác.
2. Dịch tễ học và triệu chứng
Đây là một bệnh dễ lây lan. Các ca bệnh đơn lẻ và dịch Tay – Chân - Miệng xảy ra trên khắp nơi trên thế giới với tần suất bệnh cao trong mùa hè và đầu mùa thu. Bệnh chỉ lây giữa người và người, không lây cho súc vật và thú cảnh hay ngược lại.
Đường lây truyền thường từ người sang người do tiếp xúc với các dịch tiết mũi họng, nước bọt, chất dịch từ các bọng nước hoặc phân của người bệnh. Giai đoạn lây lan mạnh nhất là tuần đầu tiên bị bệnh. Thời kỳ ủ bệnh thường từ 3 đến 7 ngày. Sốt thường là triệu chứng đầu tiên của bệnh, 1 đến 2 ngày sau sẽ xuất hiện những nốt hồng ban đường kính vài mm nổi trên nền da bình thường, sau đó trở thành bóng nước. Ở miệng có dạng vết loét, đường kính từ 4mm – 8mm, thường ở phía trong miệng, ở trên lưỡi , tại vòm miệng hoặc ở lợi răng, làm trẻ nuốt đau. Với triệu chứng này, cha mẹ thường nhầm lẫn với với bệnh viêm loét miệng thông thường. Những bóng nước ngoài da thường xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, cẳng chân hoặc ở cánh tay.Tuy nhiên, các triệu chứng này có thể không xuất hiện đầy đủ hay cùng lúc. Trẻ nhũ nhi có thể có ban dạng sẩn ở vùng mông hoặc nơi quấn tã lót.
Trong giai đoạn cấp, ngoài những dấu hiệu trên, đôi khi bệnh kèm theo triệu chứng như hạch ở cổ, hạch dưới hàm, ho, sổ mũi, tiêu chảy, buồn nôn và nôn.
Trong giai đoạn diễn tiến, khi siêu vi gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, li bì, mê sảng hay co giật.
Trẻ có thể tử vong hoặc hồi phục sau một thời gian điều trị nhưng vẫn còn những rối loạn tâm thần kinh kéo dài.
Bệnh Tay – Chân - Miệng xảy ra chủ yếu ở trẻ em dưới 10 tuổi tuy nhiên cũng có thể gặp ở cả người trưởng thành. Mọi người đều có thể nhiễm virus nhưng không phải tất cả những người nhiễm virus đều biểu hiện bệnh. Trẻ nhũ nhi, trẻ em và thiếu niên là những đối tượng dẽ bị nhiễm bệnh và biểu hiện bệnh nhất vì chúng chưa có kháng thể chống lại bệnh này. Nhiễm bệnh có thể tạo nên kháng thể đặc hiệu chống virus gây bệnh tuy nhiên bệnh vẫn có thể tái diễn do một chủng entero virus khác gây nên.
3. Chẩn đoán
Chẩn đoán bệnh thường dựa trên biểu hiện lâm sàng với vị trí đặc trưng của ban đỏ và bóng nước (tay, chân, miệng và có thể có ở mông). Phân lập virus từ các bệnh phẩm phết họng hay dịch của các bọng nước thường sau 2 đến 4 tuần mới có kết quả nên nó không hữu ích cho chẩn đoán trên từng bệnh nhân cụ thể mà chỉ có ý nghĩa chẩn đoán hồi cứu và ý nghĩa dịch tễ học. Các thầy thuốc lâm sàng thường không yêu cầu xét nghiệm này và không phải tất cả các phòng xét nghiệm vi sinh vật đều có thể thực hiện kỹ thuật nuôi cấy virus gây bệnh được.
Thường thì bác sĩ có thể phân biệt được Tay-Chân-Miệng và tác nhân khác gây đau lở miệng là nhờ dựa vào tuổi của bệnh nhân, lời khai của bố mẹ bệnh nhi về các triệu chứng điển hình cùng sự hiện diện của những nốt ban, vị trí các bóng nước và đau khi thăm khám.
4. Điều trị
Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh Tay-Chân-Miệng. Phương pháp điều trị hiện nay chỉ là điều trị triệu chứng để giảm sốt, giảm đau nhức do các vết loét gây ra, kết hợp với tăng sức đề kháng. Để hạ nhiệt, giảm đau chỉ nên dùng các thuốc loại Paracetamol hay Acetaminophen, không được dùng Aspirine hay các thuốc có chứa Aspirine vì trẻ có nguy cơ bị hội chứng Reye gây tổn thương gan - não nghiêm trọng, có thể tử vong.
Để giảm nguy cơ nhiễm trùng da niêm cần phải vệ sinh thân thể: cho trẻ súc miệng mỗi ngày, chăm sóc da bằng cách tắm nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng, tránh làm vỡ bóng nước hay trầy xước da, thay quần áo sạch hàng ngày. Cắt ngắn móng tay, đeo bao tay cho trẻ nhũ nhi để giảm tổn thương da do gãi ngứa. Lưu ý, trẻ bị bệnh Tay-Chân-Miệng không cần kiêng cữ gió và ánh sáng. Khi chăm sóc trẻ không nên chọc vỡ bóng nước, không đắp lá cây vì sẽ gây nhiễm trùng da. Nên cho trẻ ăn uống đầy đủ dưỡng chất, giữ ấm và cho uống nhiều nước như nước sôi để nguội, nước trái cây, nước canh, nước cháo…
Theo dõi diễn biến các tổn thương da niêm và tình trạng chung của trẻ. Cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế khi có những dấu hiệu bệnh nặng hơn như sốt cao, rối loạn tri giác, co giật, bóng nước có mủ, máu.
5. Tiên lượng
Bệnh Tay – Chân - Miệng do coxsackievirus A16 thường là một bệnh nhẹ và tự lành sau 7 đến 10 ngày mà không cần điều trị. Biến chứng thường ít gặp. Trong một số trường hợp hiếm gặp, bệnh nhân có thể biểu hiện viêm màng não virus (hay viêm màng não vô khuẩn) với các biểu hiện như sốt, nhức đầu, cứng cổ, đau lưng và cần phải nhập viện theo dõi.
Bệnh Tay – Chân - Miệng gây nên do enterovirrus 71 cũng có thể gây nên viêm màng não virus và hiếm hơn là các bệnh trầm trọng như viêm não hay liệt mềm dạng polio (poliomyelitis-like paralysis). Viêm não do enterovirus 71 có thể gây tử vong. Trong các vụ dịch xảy ra ở Malaysia năm 1997, ở Đài Loan năm 1998 và đang xảy ra ở Trung quốc năm 2008, một số trường hợp viêm não do loại virus này đã tử vong.
Các biến chứng khác có thể xảy ra là viêm cơ tim cấp, viêm phổi.
6. Phòng bệnh
Hiện nay chưa có thuốc chủng ngừa hay phương pháp phòng bệnh đặc hiệu cho bệnh Tay – Chân - Miệng cũng như các bệnh khác do enterovirrus không phải bại liệt khác gây ra. Tuy nhiên biện pháp vệ sinh chặt chẽ có thể hạ thấp nguy cơ nhiễm bệnh. Các biện pháp có tác dụng là thường xuyên rửa tay, đặc biệt là sau mỗi lần thay tã.
Những nơi bị nhiễm bệnh có thể được làm sạch trước tiên bằng nước xà phòng sau đó khử trùng bằng dung dịch chứa chlor. Tránh các tiếp xúc thân mật với người bệnh như hôn, vuốt ve, dùng chung dụng cụ…
7. Bệnh Tay – Chân - Miệng trong nhà trẻ
Các vụ bùng phát dịch trong nhà trẻ thường xảy ra vào mùa hè và mùa thu và thường đồng thời với hiện tượng tăng các trường hợp nhiễm bệnh trong cộng đồng. Không có biện pháp cụ thể nào đảm bảo chắc chắn giảm thiểu các trường hợp mới mắc nếu dịch bùng phát trong nhà trẻ, trường học, tuy nhiên những biện pháp sau đây thường được khuyến cáo:
+ Rửa tay sạch sẽ, nhất là sau khi đi vệ sinh, thay tã hoặc don dẹp các vật dụng có dính phân trẻ.
+ Che miệng khi ho và hắt hơi. Rất khó thực hiện ở trẻ em.
+ Vệ sinh đồ chơi . Rửa thật kỹ rồi khử trùng các dụng cụ và bề mặt với dung dịch chloramines, thuốc tẩy.
+ Cho nghỉ tại nhà những trẻ biểu hiện sốt và/hoặc có biểu hiện loét miệng hoặc trẻ nhễu nước bọt nhiều.
8. Những bệnh dễ nhầm lẫn với bệnh Tay – Chân - Miệng
Do bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu, cùng thời gian với những bệnh lý khác ở da và tổn thương da là bóng nước nên cần phân biệt với bệnh viêm da bóng nước do nhiễm khuẩn như tụ cầu và liên cầu, bệnh do nhiễm siêu vi Herpes simplex hoặc bệnh thủy đậu, Zona.
Viêm da bóng nước do nhiễm khuẩn thường xuất hiện ở những vị trí sau khi da có vết trầy sướt, ghẻ, chàm...bị bội nhiễm vi trùng tạo ra bóng nước.Sang thương da có thể đau, ngứa ,có mủ. Bóng nước do nhiễm Herpes simplex thường nổi thành từng chùm ở quanh miệng kèm cảm giác ngứa, rát. Các bệnh này có thể xảy ra vào bất kỳ thới điểm nào trong năm.
Trong bệnh Tay-Chân-Miệng, sự hiện diện bóng nước ở cả 3 vị trí tay, chân, miệng giúp ta loại trừ những bệnh lý khác.
II. BỆNH THỦY ĐẬU
Bệnh thủy đậu xảy ra quanh năm nhưng thời điểm có số ca mắc cao nhất thường từ tháng 2 - 6 mà trong đó, tháng 3 là đỉnh điểm. Bệnh thủy đậu cũng có khả năng bùng phát thành dịch.
Nguyên nhân: Thủy đậu do virus Varicella zoster gây ra. Phần lớn bệnh nhân bị nhiễm là trẻ em 5-11 tuổi nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở người lớn. 90% đối tượng chưa chủng ngừa thủy đậu có khả năng mắc bệnh. Điều này có nghĩa là một người chưa được chủng ngừa thủy đậu nếu tiếp xúc với người mang mầm bệnh hoặc bệnh nhân thủy đậu thì hầu như chắc chắn sẽ bị lây bệnh.
Đặc trưng của bệnh thủy đậu là ngứa, phát ban ngoài da, ban sẩn có mụn nước, bóng nước thường kèm theo sốt. Bóng nước do bệnh thủy đậu thường lõm ở giữa khi mới mọc, nổi rải rác toàn thân, bóng nước cũ xen lẫn bóng nước mới, có bóng nước trong lẫn bóng nước đục. Dấu hiệu ban đầu khi khởi bệnh là sốt, mệt mỏi, biếng ăn, đau cơ. Sau đó các nốt rạ xuất hiện ở da đầu, mặt, lan xuống thân và tay chân với số lượng từ 300 đến cả ngàn nốt gây ngứa ngáy, đau nhức rất khó chịu.
Thủy đậu là bệnh có diễn biến nhẹ. Tuy nhiên, nếu không được chăm sóc đúng cách, bệnh có thể gây những biến chứng nguy hiểm, từ bội nhiễm vi khuẩn đến viêm não. Nếu bệnh nhân bị bội nhiễm sang thương da có thể để lại sẹo vĩnh viễn. Biến chứng của thủy đậu có tác hại đến hệ thần kinh trung ương và có thể gây viêm phổi, dẫn đến tử vong. Một biến chứng khác về sau của bệnh thủy đậu là Zona, còn gọi là giời leo. Bệnh giời leo thường gây đau nhức nhiều hơn so với bệnh thủy đậu và có thể kéo dài trong nhiều năm.
III. BỆNH ZONA
Bệnh Zona - trong dân gian gọi là "giời leo"- là một bệnh do siêu vi gây ra và chỉ xuất hiện ở những người đã từng bị thủy đậu trước đó. Nếu trẻ em được chủng ngừa thủy đậu từ bé, chúng sẽ không bị thuỷ đậu sau này và cũng sẽ không bị Zona.
Mọi lứa tuổi, cả nam lẫn nữ đều có thể mắc bệnh. Bệnh khởi phát đột ngột, diễn tiến cấp tính và có thể tự lành. Các mụn nước sẽ vỡ, chảy dịch, đóng mài và lành sẹo, có thể xấu hoặc không trong vòng 2-3 tuần. Một số ít trường hợp nặng, có thể có biến chứng như bội nhiễm sang thương da, đau nhức thần kinh sau Zona, viêm thần kinh thị giác, loét giác mạc, liêt thần kinh mặt…
Zona không có những thời điểm bùng phát đặc biệt như bệnh Tay-Chân-Miệng, thủy đậu, mà Zona dễ phát ra ở những người già, yếu, có sức đề kháng suy giảm, đã từng bị thủy đậu trước đó.
Lúc khởi bệnh, bệnh nhân cảm thấy đau, rát ở một vùng da kèm sốt, mệt mỏi. Sau đó nổi nhiều mụn nước to nhỏ không đều thành chùm trên nền hồng ban.Vị trí các mụn nước có thể nổi trên một vùng da hay niêm mạc nhưng đặc biệt là chỉ ở một bên cơ thể, hiếm khi lan qua bên đối diện. Ðau là một triệu chứng chính của bệnh do các rễ thần kinh bị tổn thương. Tùy trường hợp, có khi chỉ đau vừa nhưng có khi đau rất dữ dội, nhất là ở những người già. Hạch nách, cổ hay bẹn cùng bên và gần với vùng da bị bệnh có thể sưng to.
Chùm mụn nước ở một bên cơ thể, nổi hạch kèm triệu chứng đau rát là các đặc điểm quan trọng của bệnh Zona.
Việc tái phát Zona thì hầu như không đặt ra vì Zona thường chỉ xảy ra một lần trong đời. Rất hiếm bệnh nhân có thể bị Zona lần thứ nhì, tỷ lệ là 1/1000. Đại đa số trường hợp chỉ bị một lần và không tái phát.
CHĂM SÓC SANG THƯƠNG DA
Bệnh Tay – Chân - Miệng, Thủy đậu và Zona đều là các bệnh do siêu vi gây ra có biểu hiện ngoài da. Việc chăm sóc sang thương da rất quan trọng để không làm tình trạng bệnh năng thêm cũng như phòng ngừa các biến chứng. Các điểm chung cần lưu ý là:
+ Không dùng các loại thuốc giảm đau có chứa Aspirine.
+ Thường xuyên rửa tay sạch sẽ với xà phòng, cả trước lẫn sau khi đi vệ sinh, thay tã hoặc don dẹp các vật dụng có dính phân trẻ. Cắt ngắn móng tay , tránh gãi nhiều làm trầy sướt da. Có thể đeo bao tay cho trẻ nhũ nhi.
+ Không gãi, không lễ , không nặn các bóng nước. Không dùng các loại lá cây truyền khẩu để đắp lên các sang thương da. Thuốc bôi tốt nhất hiện nay để sát khuẩn và phòng ngừa bội nhiễm là xanh Methylen.
+ Không cử tắm, không cử ra gió hay cử ra ánh sáng. Không dùng các loại lá cây, gốc rạ để nấu nước tắm vì dễ gây bội nhiễm vi trùng. Tắm với nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng tránh làm vỡ các bóng nước.
+ Theo dõi diễn biến các tổn thương da, niêm và tổng trạng của bệnh nhân. Cần đưa bệnh nhân đến ngay cơ sở y tế khi có những dấu hiệu bệnh nặng hơn như sốt cao, rối loạn tri giác, co giật, bóng nước có mủ, máu…để được hướng dẫn xứ trí kịp thời tránh các biến chứng đáng tiếc.
Phòng Bệnh
Khác với bệnh Tay-Chân-Miệng, các bệnh Thủy đậu và Zona đều có thuốc chủng ngừa.
Đối với Thủy đậu, theo khuyến cáo mới nhất của ACIP - Ủy ban cố vấn về thực hiện chủng ngừa của Trung tâm Phòng ngừa và kiểm soát bệnh Hoa Kỳ : Trẻ dưới 13 tuổi nên được chủng ngừa hai liều, liều thứ nhất khi 12-15 tháng tuổi, liều thứ hai lúc 4-6 tuổi, trước khi đi học. Trẻ trên 13 tuổi và người lớn: tiêm hai liều, cách nhau ba tháng.
Sở dĩ phải tiêm ngừa hai lần là do tác dụng của vắc-xin ngừa thủy đậu giảm dần theo thời gian, chỉ với một liều tiêm phòng duy nhất cho trẻ dưới 12 tuổi đã không đủ bảo vệ các cháu.
Thuốc chủng ngừa Zona là Zostavax, 1 vaccine sống, có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể ngăn chặn siêu vi thủy đậu tái hoạt và có thể ngừa Zona bộc phát. Zostavax có thể làm giảm nguy cơ đau thần kinh sau Zona trên 60% trường hợp được chủng ngừa nhưng Zostavax không có tác dụng ngừa thủy đậu và không có chỉ định điều trị Zona hay đau sau Zona. Ở những người đã được chủng ngừa với Zostavax, Zona vẫn có thể xuất hiện nhưng với cường độ nhẹ và cơn đau không nghiêm trọng hay không kéo dài. Zostavax khá an toàn khi sử dụng, được dùng tiêm dưới da liều duy nhất, không dùng cho trẻ em và người dưới 60 tuổi hay người chưa từng bị thủy đậu.
Bệnh Tay - Chân - Miệng (Hand - Foot - Mouth Disease - HFMD) là một bệnh thường gặp ở nhũ nhi và trẻ em. Bệnh thường được đặc trưng bởi sốt, đau họng và nổi ban đỏ có bọng nước ở miệng, lòng bàn tay.
1. Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh Tay - Chân - Miệng do virus thuộc nhóm virus đường ruột ( poliovirus, coxsackievirus, echovirus…) gây nên. Tác nhân thường gặp nhất là coxsackievirus A16, đôi khi do enterovirus 71 và các virus đường ruột khác.
2. Dịch tễ học và triệu chứng
Đây là một bệnh dễ lây lan. Các ca bệnh đơn lẻ và dịch Tay – Chân - Miệng xảy ra trên khắp nơi trên thế giới với tần suất bệnh cao trong mùa hè và đầu mùa thu. Bệnh chỉ lây giữa người và người, không lây cho súc vật và thú cảnh hay ngược lại.
Đường lây truyền thường từ người sang người do tiếp xúc với các dịch tiết mũi họng, nước bọt, chất dịch từ các bọng nước hoặc phân của người bệnh. Giai đoạn lây lan mạnh nhất là tuần đầu tiên bị bệnh. Thời kỳ ủ bệnh thường từ 3 đến 7 ngày. Sốt thường là triệu chứng đầu tiên của bệnh, 1 đến 2 ngày sau sẽ xuất hiện những nốt hồng ban đường kính vài mm nổi trên nền da bình thường, sau đó trở thành bóng nước. Ở miệng có dạng vết loét, đường kính từ 4mm – 8mm, thường ở phía trong miệng, ở trên lưỡi , tại vòm miệng hoặc ở lợi răng, làm trẻ nuốt đau. Với triệu chứng này, cha mẹ thường nhầm lẫn với với bệnh viêm loét miệng thông thường. Những bóng nước ngoài da thường xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, cẳng chân hoặc ở cánh tay.Tuy nhiên, các triệu chứng này có thể không xuất hiện đầy đủ hay cùng lúc. Trẻ nhũ nhi có thể có ban dạng sẩn ở vùng mông hoặc nơi quấn tã lót.
Trong giai đoạn cấp, ngoài những dấu hiệu trên, đôi khi bệnh kèm theo triệu chứng như hạch ở cổ, hạch dưới hàm, ho, sổ mũi, tiêu chảy, buồn nôn và nôn.
Trong giai đoạn diễn tiến, khi siêu vi gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung ương sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, li bì, mê sảng hay co giật.
Trẻ có thể tử vong hoặc hồi phục sau một thời gian điều trị nhưng vẫn còn những rối loạn tâm thần kinh kéo dài.
Bệnh Tay – Chân - Miệng xảy ra chủ yếu ở trẻ em dưới 10 tuổi tuy nhiên cũng có thể gặp ở cả người trưởng thành. Mọi người đều có thể nhiễm virus nhưng không phải tất cả những người nhiễm virus đều biểu hiện bệnh. Trẻ nhũ nhi, trẻ em và thiếu niên là những đối tượng dẽ bị nhiễm bệnh và biểu hiện bệnh nhất vì chúng chưa có kháng thể chống lại bệnh này. Nhiễm bệnh có thể tạo nên kháng thể đặc hiệu chống virus gây bệnh tuy nhiên bệnh vẫn có thể tái diễn do một chủng entero virus khác gây nên.
3. Chẩn đoán
Chẩn đoán bệnh thường dựa trên biểu hiện lâm sàng với vị trí đặc trưng của ban đỏ và bóng nước (tay, chân, miệng và có thể có ở mông). Phân lập virus từ các bệnh phẩm phết họng hay dịch của các bọng nước thường sau 2 đến 4 tuần mới có kết quả nên nó không hữu ích cho chẩn đoán trên từng bệnh nhân cụ thể mà chỉ có ý nghĩa chẩn đoán hồi cứu và ý nghĩa dịch tễ học. Các thầy thuốc lâm sàng thường không yêu cầu xét nghiệm này và không phải tất cả các phòng xét nghiệm vi sinh vật đều có thể thực hiện kỹ thuật nuôi cấy virus gây bệnh được.
Thường thì bác sĩ có thể phân biệt được Tay-Chân-Miệng và tác nhân khác gây đau lở miệng là nhờ dựa vào tuổi của bệnh nhân, lời khai của bố mẹ bệnh nhi về các triệu chứng điển hình cùng sự hiện diện của những nốt ban, vị trí các bóng nước và đau khi thăm khám.
4. Điều trị
Chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh Tay-Chân-Miệng. Phương pháp điều trị hiện nay chỉ là điều trị triệu chứng để giảm sốt, giảm đau nhức do các vết loét gây ra, kết hợp với tăng sức đề kháng. Để hạ nhiệt, giảm đau chỉ nên dùng các thuốc loại Paracetamol hay Acetaminophen, không được dùng Aspirine hay các thuốc có chứa Aspirine vì trẻ có nguy cơ bị hội chứng Reye gây tổn thương gan - não nghiêm trọng, có thể tử vong.
Để giảm nguy cơ nhiễm trùng da niêm cần phải vệ sinh thân thể: cho trẻ súc miệng mỗi ngày, chăm sóc da bằng cách tắm nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng, tránh làm vỡ bóng nước hay trầy xước da, thay quần áo sạch hàng ngày. Cắt ngắn móng tay, đeo bao tay cho trẻ nhũ nhi để giảm tổn thương da do gãi ngứa. Lưu ý, trẻ bị bệnh Tay-Chân-Miệng không cần kiêng cữ gió và ánh sáng. Khi chăm sóc trẻ không nên chọc vỡ bóng nước, không đắp lá cây vì sẽ gây nhiễm trùng da. Nên cho trẻ ăn uống đầy đủ dưỡng chất, giữ ấm và cho uống nhiều nước như nước sôi để nguội, nước trái cây, nước canh, nước cháo…
Theo dõi diễn biến các tổn thương da niêm và tình trạng chung của trẻ. Cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế khi có những dấu hiệu bệnh nặng hơn như sốt cao, rối loạn tri giác, co giật, bóng nước có mủ, máu.
5. Tiên lượng
Bệnh Tay – Chân - Miệng do coxsackievirus A16 thường là một bệnh nhẹ và tự lành sau 7 đến 10 ngày mà không cần điều trị. Biến chứng thường ít gặp. Trong một số trường hợp hiếm gặp, bệnh nhân có thể biểu hiện viêm màng não virus (hay viêm màng não vô khuẩn) với các biểu hiện như sốt, nhức đầu, cứng cổ, đau lưng và cần phải nhập viện theo dõi.
Bệnh Tay – Chân - Miệng gây nên do enterovirrus 71 cũng có thể gây nên viêm màng não virus và hiếm hơn là các bệnh trầm trọng như viêm não hay liệt mềm dạng polio (poliomyelitis-like paralysis). Viêm não do enterovirus 71 có thể gây tử vong. Trong các vụ dịch xảy ra ở Malaysia năm 1997, ở Đài Loan năm 1998 và đang xảy ra ở Trung quốc năm 2008, một số trường hợp viêm não do loại virus này đã tử vong.
Các biến chứng khác có thể xảy ra là viêm cơ tim cấp, viêm phổi.
6. Phòng bệnh
Hiện nay chưa có thuốc chủng ngừa hay phương pháp phòng bệnh đặc hiệu cho bệnh Tay – Chân - Miệng cũng như các bệnh khác do enterovirrus không phải bại liệt khác gây ra. Tuy nhiên biện pháp vệ sinh chặt chẽ có thể hạ thấp nguy cơ nhiễm bệnh. Các biện pháp có tác dụng là thường xuyên rửa tay, đặc biệt là sau mỗi lần thay tã.
Những nơi bị nhiễm bệnh có thể được làm sạch trước tiên bằng nước xà phòng sau đó khử trùng bằng dung dịch chứa chlor. Tránh các tiếp xúc thân mật với người bệnh như hôn, vuốt ve, dùng chung dụng cụ…
7. Bệnh Tay – Chân - Miệng trong nhà trẻ
Các vụ bùng phát dịch trong nhà trẻ thường xảy ra vào mùa hè và mùa thu và thường đồng thời với hiện tượng tăng các trường hợp nhiễm bệnh trong cộng đồng. Không có biện pháp cụ thể nào đảm bảo chắc chắn giảm thiểu các trường hợp mới mắc nếu dịch bùng phát trong nhà trẻ, trường học, tuy nhiên những biện pháp sau đây thường được khuyến cáo:
+ Rửa tay sạch sẽ, nhất là sau khi đi vệ sinh, thay tã hoặc don dẹp các vật dụng có dính phân trẻ.
+ Che miệng khi ho và hắt hơi. Rất khó thực hiện ở trẻ em.
+ Vệ sinh đồ chơi . Rửa thật kỹ rồi khử trùng các dụng cụ và bề mặt với dung dịch chloramines, thuốc tẩy.
+ Cho nghỉ tại nhà những trẻ biểu hiện sốt và/hoặc có biểu hiện loét miệng hoặc trẻ nhễu nước bọt nhiều.
8. Những bệnh dễ nhầm lẫn với bệnh Tay – Chân - Miệng
Do bệnh thường xảy ra vào mùa hè thu, cùng thời gian với những bệnh lý khác ở da và tổn thương da là bóng nước nên cần phân biệt với bệnh viêm da bóng nước do nhiễm khuẩn như tụ cầu và liên cầu, bệnh do nhiễm siêu vi Herpes simplex hoặc bệnh thủy đậu, Zona.
Viêm da bóng nước do nhiễm khuẩn thường xuất hiện ở những vị trí sau khi da có vết trầy sướt, ghẻ, chàm...bị bội nhiễm vi trùng tạo ra bóng nước.Sang thương da có thể đau, ngứa ,có mủ. Bóng nước do nhiễm Herpes simplex thường nổi thành từng chùm ở quanh miệng kèm cảm giác ngứa, rát. Các bệnh này có thể xảy ra vào bất kỳ thới điểm nào trong năm.
Trong bệnh Tay-Chân-Miệng, sự hiện diện bóng nước ở cả 3 vị trí tay, chân, miệng giúp ta loại trừ những bệnh lý khác.
II. BỆNH THỦY ĐẬU
Bệnh thủy đậu xảy ra quanh năm nhưng thời điểm có số ca mắc cao nhất thường từ tháng 2 - 6 mà trong đó, tháng 3 là đỉnh điểm. Bệnh thủy đậu cũng có khả năng bùng phát thành dịch.
Nguyên nhân: Thủy đậu do virus Varicella zoster gây ra. Phần lớn bệnh nhân bị nhiễm là trẻ em 5-11 tuổi nhưng bệnh cũng có thể xảy ra ở người lớn. 90% đối tượng chưa chủng ngừa thủy đậu có khả năng mắc bệnh. Điều này có nghĩa là một người chưa được chủng ngừa thủy đậu nếu tiếp xúc với người mang mầm bệnh hoặc bệnh nhân thủy đậu thì hầu như chắc chắn sẽ bị lây bệnh.
Đặc trưng của bệnh thủy đậu là ngứa, phát ban ngoài da, ban sẩn có mụn nước, bóng nước thường kèm theo sốt. Bóng nước do bệnh thủy đậu thường lõm ở giữa khi mới mọc, nổi rải rác toàn thân, bóng nước cũ xen lẫn bóng nước mới, có bóng nước trong lẫn bóng nước đục. Dấu hiệu ban đầu khi khởi bệnh là sốt, mệt mỏi, biếng ăn, đau cơ. Sau đó các nốt rạ xuất hiện ở da đầu, mặt, lan xuống thân và tay chân với số lượng từ 300 đến cả ngàn nốt gây ngứa ngáy, đau nhức rất khó chịu.
Thủy đậu là bệnh có diễn biến nhẹ. Tuy nhiên, nếu không được chăm sóc đúng cách, bệnh có thể gây những biến chứng nguy hiểm, từ bội nhiễm vi khuẩn đến viêm não. Nếu bệnh nhân bị bội nhiễm sang thương da có thể để lại sẹo vĩnh viễn. Biến chứng của thủy đậu có tác hại đến hệ thần kinh trung ương và có thể gây viêm phổi, dẫn đến tử vong. Một biến chứng khác về sau của bệnh thủy đậu là Zona, còn gọi là giời leo. Bệnh giời leo thường gây đau nhức nhiều hơn so với bệnh thủy đậu và có thể kéo dài trong nhiều năm.
III. BỆNH ZONA
Bệnh Zona - trong dân gian gọi là "giời leo"- là một bệnh do siêu vi gây ra và chỉ xuất hiện ở những người đã từng bị thủy đậu trước đó. Nếu trẻ em được chủng ngừa thủy đậu từ bé, chúng sẽ không bị thuỷ đậu sau này và cũng sẽ không bị Zona.
Mọi lứa tuổi, cả nam lẫn nữ đều có thể mắc bệnh. Bệnh khởi phát đột ngột, diễn tiến cấp tính và có thể tự lành. Các mụn nước sẽ vỡ, chảy dịch, đóng mài và lành sẹo, có thể xấu hoặc không trong vòng 2-3 tuần. Một số ít trường hợp nặng, có thể có biến chứng như bội nhiễm sang thương da, đau nhức thần kinh sau Zona, viêm thần kinh thị giác, loét giác mạc, liêt thần kinh mặt…
Zona không có những thời điểm bùng phát đặc biệt như bệnh Tay-Chân-Miệng, thủy đậu, mà Zona dễ phát ra ở những người già, yếu, có sức đề kháng suy giảm, đã từng bị thủy đậu trước đó.
Lúc khởi bệnh, bệnh nhân cảm thấy đau, rát ở một vùng da kèm sốt, mệt mỏi. Sau đó nổi nhiều mụn nước to nhỏ không đều thành chùm trên nền hồng ban.Vị trí các mụn nước có thể nổi trên một vùng da hay niêm mạc nhưng đặc biệt là chỉ ở một bên cơ thể, hiếm khi lan qua bên đối diện. Ðau là một triệu chứng chính của bệnh do các rễ thần kinh bị tổn thương. Tùy trường hợp, có khi chỉ đau vừa nhưng có khi đau rất dữ dội, nhất là ở những người già. Hạch nách, cổ hay bẹn cùng bên và gần với vùng da bị bệnh có thể sưng to.
Chùm mụn nước ở một bên cơ thể, nổi hạch kèm triệu chứng đau rát là các đặc điểm quan trọng của bệnh Zona.
Việc tái phát Zona thì hầu như không đặt ra vì Zona thường chỉ xảy ra một lần trong đời. Rất hiếm bệnh nhân có thể bị Zona lần thứ nhì, tỷ lệ là 1/1000. Đại đa số trường hợp chỉ bị một lần và không tái phát.
CHĂM SÓC SANG THƯƠNG DA
Bệnh Tay – Chân - Miệng, Thủy đậu và Zona đều là các bệnh do siêu vi gây ra có biểu hiện ngoài da. Việc chăm sóc sang thương da rất quan trọng để không làm tình trạng bệnh năng thêm cũng như phòng ngừa các biến chứng. Các điểm chung cần lưu ý là:
+ Không dùng các loại thuốc giảm đau có chứa Aspirine.
+ Thường xuyên rửa tay sạch sẽ với xà phòng, cả trước lẫn sau khi đi vệ sinh, thay tã hoặc don dẹp các vật dụng có dính phân trẻ. Cắt ngắn móng tay , tránh gãi nhiều làm trầy sướt da. Có thể đeo bao tay cho trẻ nhũ nhi.
+ Không gãi, không lễ , không nặn các bóng nước. Không dùng các loại lá cây truyền khẩu để đắp lên các sang thương da. Thuốc bôi tốt nhất hiện nay để sát khuẩn và phòng ngừa bội nhiễm là xanh Methylen.
+ Không cử tắm, không cử ra gió hay cử ra ánh sáng. Không dùng các loại lá cây, gốc rạ để nấu nước tắm vì dễ gây bội nhiễm vi trùng. Tắm với nước ấm, lau rửa nhẹ nhàng tránh làm vỡ các bóng nước.
+ Theo dõi diễn biến các tổn thương da, niêm và tổng trạng của bệnh nhân. Cần đưa bệnh nhân đến ngay cơ sở y tế khi có những dấu hiệu bệnh nặng hơn như sốt cao, rối loạn tri giác, co giật, bóng nước có mủ, máu…để được hướng dẫn xứ trí kịp thời tránh các biến chứng đáng tiếc.
Phòng Bệnh
Khác với bệnh Tay-Chân-Miệng, các bệnh Thủy đậu và Zona đều có thuốc chủng ngừa.
Đối với Thủy đậu, theo khuyến cáo mới nhất của ACIP - Ủy ban cố vấn về thực hiện chủng ngừa của Trung tâm Phòng ngừa và kiểm soát bệnh Hoa Kỳ : Trẻ dưới 13 tuổi nên được chủng ngừa hai liều, liều thứ nhất khi 12-15 tháng tuổi, liều thứ hai lúc 4-6 tuổi, trước khi đi học. Trẻ trên 13 tuổi và người lớn: tiêm hai liều, cách nhau ba tháng.
Sở dĩ phải tiêm ngừa hai lần là do tác dụng của vắc-xin ngừa thủy đậu giảm dần theo thời gian, chỉ với một liều tiêm phòng duy nhất cho trẻ dưới 12 tuổi đã không đủ bảo vệ các cháu.
Thuốc chủng ngừa Zona là Zostavax, 1 vaccine sống, có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể ngăn chặn siêu vi thủy đậu tái hoạt và có thể ngừa Zona bộc phát. Zostavax có thể làm giảm nguy cơ đau thần kinh sau Zona trên 60% trường hợp được chủng ngừa nhưng Zostavax không có tác dụng ngừa thủy đậu và không có chỉ định điều trị Zona hay đau sau Zona. Ở những người đã được chủng ngừa với Zostavax, Zona vẫn có thể xuất hiện nhưng với cường độ nhẹ và cơn đau không nghiêm trọng hay không kéo dài. Zostavax khá an toàn khi sử dụng, được dùng tiêm dưới da liều duy nhất, không dùng cho trẻ em và người dưới 60 tuổi hay người chưa từng bị thủy đậu.