BỆNH SỐT RÉT
1. Đại cương.
- Bệnh Sốt Rét là một bệnh lây nhiễm, do Ký sinh trùng SR gây nên và muỗi SR là thủ phạm truyền bệnh từ người bị SR sang người lành. Bệnh nặng (SR ác tính) nếu không được cứu chữa kịp thời có thể sẽ dẫn tới tử vong.
- Ký sinh trùng SR là một sinh vật rất nhỏ. Ta chỉ nhìn thấy chúng qua kính hiểm vi có độ phóng đại lớn. Ký sinh trùng SR sống trong máu, trong một số cơ quan của cơ thể người. Chúng phá vỡ hàng loạt hồng cầu huỷ hoại các tế bào trong cơ thể và gây ra cơn sốt. Cơn sốt có thể có chu kỳ một ngày một cơn hay cách nhật, cách 3 ngày tuỳ theo tính chất của Ký sinh trùng SR.
- Muỗi truyền bệnh Sốt Rét (Muỗi Anophen) hút máu của người bệnh, hút theo cả KST Sốt Rét vào cơ thể muỗi. Ký sinh trùng phát triển,sinh sản nhân lên gấp nhiều lần. Khi con muỗi này đốt người lành đồng thời truyền ký sinh trùng và gây bệnh cho ngươì .Sự lây lan này rất nhanh trong một thời gian ngắn có thể hàng trăm người cùng mắc bệnh Sốt rét.
2. Triệu chứng lâm sàng bệnh sốt rét: Dựa vào 3 yếu tố : Dịch tễ ,lâm sàng ,xét nghiệm.
1- Yếu tố dịch tễ: Sống ở vùng sốt rét , hoặc vào vùng sốt rét, hay có tiền sử sốt rét trong 2 năm tở lại đây.
2- Yếu tố lâm sàng:
- Cơn sốt điển hình: Rét run- sốt nóng-ra mồ hôi.
- Cơn sốt không điển hình:
+ Sốt không thành cơn, ớn lạnh hơi gai rét hay gặp ở trẻ nhỏ và người sống lâu ở vùng sốt rét lưu hành.
+ Sốt lien tục hoặc giao động trong 5-7 ngày đầu,rồi thành cơn.(Ở BN sốt rét lần đầu).
- Các dấu hiệu khác : Thiếu máu ,gan to lách to.
3. Chẩn đoán xét nghiệm : Xét nghiệm máu tìm KSTSR, Kết quả dương tính.
* Khi có sốt (nghi bị SR): Hãy đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được khám và lấy lam máu phát hiện ký sinh trùng và được điều trị.
* Xác Định ca bệnh Sốt rét.( BNSRLS): Trường hợp không được xét nghiệm hoặc âm tính,có 4 đặc điểm sau:
- Hiện đang sốt ( >37,5độ C) hoặc có sốt trong vòng 3 ngày gần đây.
- Không giải thích được các nguyên nhân gây sốt khác.
- Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét lưu hành, hoặc có tiền sử sốt rét trong 2 năm trở lại đây.
- Điều trị 3 ngày bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt.
3. Nguyên tắc và cách điều trị bệnh sốt rét thể thông thường
a.Nguyên tắc điều trị bệnh sốt rét
- Tất cả các bệnh nhân phát hiện, chẩn đoán bị mắc bệnh sốt rét cần được điều trị sớm, đúng, đủ liều và dựa vào kết quả xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét để chỉ định sử dụng thuốc sốt rét phù hợp.
- Việc điều trị cắt cơn sốt phải kết hợp với điều trị chống lây lan nếu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparun và điều trị tiệt căn nếu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax.
- Các trường hợp sốt rét do nhiễm Plasmodium falciparum không được điều trị đơn thuần, phải điều trị thuốc phối hợp để hạn chế sự kháng thuốc và tăng hiệu lực điều trị. Ngoài điều trị bằng thuốc sốt rét đặc hiệu, cần kết hợp với điều trị triệu chứng, biến chứng và nâng cao thể trạng cho bệnh nhân.
b.Cách điều trị bệnh sốt rét thể thông thường
- Bệnh sốt rét thể thông thường được điều trị bằng thuốc đặc hiệu dựa vào kết quả xét nghiệm và chẩn đoán lâm sàng để chọn thuốc sốt rét có hiệu lực và an toàn. Việc sử dụng thuốc sốt rét quy định cụ thể bằng các loại thuốc điều trị ưu tiên và thuốc điều trị thay thế.
-Thuốc điều trị ưu tiên (first line) sử dụng tùy theo chủng loại KST sốt rét bị nhiễm.
+ Đối với các trường hợp bị nhiễm Plasmodium falciparum dùng thuốc phối hợp Dihydroartemisinine-Piperaquine, có tên biệt dược là CV-Artecan, Arterakin, uống trong 3 ngày, liều lượng theo nhóm tuổi; không điều trị cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu. Cần điều trị kết hợp thêm thuốc Primaquine 0,5mg/kg cân nặng liều duy nhất cho tất cả các trường hợp có Plasmodium falciparum dương tính.
+ Đối với các trường hợp bị nhiễm Plasmodium vivax dùng thuốc Chloroquine 25mg base/kg cân nặng chia trong 3 ngày điều kết hợp với Primaquine 0,25mg base/kg cân nặng/ngày trong 14 ngày liên tiếp, điều trị vào ngày đầu tiên cùng với Chloroquine. Có thể tính liều lượng thuốc Chloroquine và Primaquine theo nhóm tuổi quy định. Cần chú ý uống Primaquine sau khi ăn, không dùng thuốc cho trẻ em dưới 3 tuổi, phụ nữ có thai, người có bệnh gan, thiếu men G6PD (Glucose 6 Phosphate Dehydrogenase). Nếu không có điều kiện xét nghiệm G6PD thì cần theo dõi biến động khối lượng hồng cầu, màu sắc da, màu sắc nước tiểu; khi nước tiểu chuyển màu sẫm như nước vối hoặc màu nước cà phê đen phải dừng thuốc kịp thời.
- Thuốc điều trị thay thế (second line) được sử dụng khi theo dõi trong 3 ngày điều trị bằng thuốc điều trị ưu tiên (first line) mà bệnh nhân vẫn sốt, tình trạng bệnh xấu đi, còn ký sinh trùng sốt rét và diễn biến bệnh nặng hơn thì thay các loại thuốc sốt rét điều trị thay thế có hiệu lực cao hơn. Thuốc điều trị thay thế được dùng là Quinine 30mg/kg/ngày, trong 7 ngày kết hợp với Doxycycline 3mg/kg/ngày, trong 7 ngày; hoặc Qunine 30mg/kg/ngày, trong 7 ngày kết hợp với Clindamycine 15mg/kg/ngày, trong 7 ngày cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 8 tuổi. Thuốc Doxycycline và Clindamycine được đưa bổ sung vào trong danh mục thuốc sốt rét sử dụng.
- Khi bệnh nhân bị mắc bệnh sốt rét thể thông thường, nếu bảo đảm được nguyên tắc phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời thì có thể ngăn ngừa nguy cơ chuyển thành sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong. Nếu thực hiện được khẩu hiệu hành động “Không có sốt rét ác tính, không có tử vong” thì có thể đạt mục tiêu chỉ đạo giảm tử vong của Dự án Quốc gia Phòng chống Sốt rét.
1. Đại cương.
- Bệnh Sốt Rét là một bệnh lây nhiễm, do Ký sinh trùng SR gây nên và muỗi SR là thủ phạm truyền bệnh từ người bị SR sang người lành. Bệnh nặng (SR ác tính) nếu không được cứu chữa kịp thời có thể sẽ dẫn tới tử vong.
- Ký sinh trùng SR là một sinh vật rất nhỏ. Ta chỉ nhìn thấy chúng qua kính hiểm vi có độ phóng đại lớn. Ký sinh trùng SR sống trong máu, trong một số cơ quan của cơ thể người. Chúng phá vỡ hàng loạt hồng cầu huỷ hoại các tế bào trong cơ thể và gây ra cơn sốt. Cơn sốt có thể có chu kỳ một ngày một cơn hay cách nhật, cách 3 ngày tuỳ theo tính chất của Ký sinh trùng SR.
- Muỗi truyền bệnh Sốt Rét (Muỗi Anophen) hút máu của người bệnh, hút theo cả KST Sốt Rét vào cơ thể muỗi. Ký sinh trùng phát triển,sinh sản nhân lên gấp nhiều lần. Khi con muỗi này đốt người lành đồng thời truyền ký sinh trùng và gây bệnh cho ngươì .Sự lây lan này rất nhanh trong một thời gian ngắn có thể hàng trăm người cùng mắc bệnh Sốt rét.
2. Triệu chứng lâm sàng bệnh sốt rét: Dựa vào 3 yếu tố : Dịch tễ ,lâm sàng ,xét nghiệm.
1- Yếu tố dịch tễ: Sống ở vùng sốt rét , hoặc vào vùng sốt rét, hay có tiền sử sốt rét trong 2 năm tở lại đây.
2- Yếu tố lâm sàng:
- Cơn sốt điển hình: Rét run- sốt nóng-ra mồ hôi.
- Cơn sốt không điển hình:
+ Sốt không thành cơn, ớn lạnh hơi gai rét hay gặp ở trẻ nhỏ và người sống lâu ở vùng sốt rét lưu hành.
+ Sốt lien tục hoặc giao động trong 5-7 ngày đầu,rồi thành cơn.(Ở BN sốt rét lần đầu).
- Các dấu hiệu khác : Thiếu máu ,gan to lách to.
3. Chẩn đoán xét nghiệm : Xét nghiệm máu tìm KSTSR, Kết quả dương tính.
* Khi có sốt (nghi bị SR): Hãy đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được khám và lấy lam máu phát hiện ký sinh trùng và được điều trị.
* Xác Định ca bệnh Sốt rét.( BNSRLS): Trường hợp không được xét nghiệm hoặc âm tính,có 4 đặc điểm sau:
- Hiện đang sốt ( >37,5độ C) hoặc có sốt trong vòng 3 ngày gần đây.
- Không giải thích được các nguyên nhân gây sốt khác.
- Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét lưu hành, hoặc có tiền sử sốt rét trong 2 năm trở lại đây.
- Điều trị 3 ngày bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt.
3. Nguyên tắc và cách điều trị bệnh sốt rét thể thông thường
a.Nguyên tắc điều trị bệnh sốt rét
- Tất cả các bệnh nhân phát hiện, chẩn đoán bị mắc bệnh sốt rét cần được điều trị sớm, đúng, đủ liều và dựa vào kết quả xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét để chỉ định sử dụng thuốc sốt rét phù hợp.
- Việc điều trị cắt cơn sốt phải kết hợp với điều trị chống lây lan nếu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparun và điều trị tiệt căn nếu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax.
- Các trường hợp sốt rét do nhiễm Plasmodium falciparum không được điều trị đơn thuần, phải điều trị thuốc phối hợp để hạn chế sự kháng thuốc và tăng hiệu lực điều trị. Ngoài điều trị bằng thuốc sốt rét đặc hiệu, cần kết hợp với điều trị triệu chứng, biến chứng và nâng cao thể trạng cho bệnh nhân.
b.Cách điều trị bệnh sốt rét thể thông thường
- Bệnh sốt rét thể thông thường được điều trị bằng thuốc đặc hiệu dựa vào kết quả xét nghiệm và chẩn đoán lâm sàng để chọn thuốc sốt rét có hiệu lực và an toàn. Việc sử dụng thuốc sốt rét quy định cụ thể bằng các loại thuốc điều trị ưu tiên và thuốc điều trị thay thế.
-Thuốc điều trị ưu tiên (first line) sử dụng tùy theo chủng loại KST sốt rét bị nhiễm.
+ Đối với các trường hợp bị nhiễm Plasmodium falciparum dùng thuốc phối hợp Dihydroartemisinine-Piperaquine, có tên biệt dược là CV-Artecan, Arterakin, uống trong 3 ngày, liều lượng theo nhóm tuổi; không điều trị cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu. Cần điều trị kết hợp thêm thuốc Primaquine 0,5mg/kg cân nặng liều duy nhất cho tất cả các trường hợp có Plasmodium falciparum dương tính.
+ Đối với các trường hợp bị nhiễm Plasmodium vivax dùng thuốc Chloroquine 25mg base/kg cân nặng chia trong 3 ngày điều kết hợp với Primaquine 0,25mg base/kg cân nặng/ngày trong 14 ngày liên tiếp, điều trị vào ngày đầu tiên cùng với Chloroquine. Có thể tính liều lượng thuốc Chloroquine và Primaquine theo nhóm tuổi quy định. Cần chú ý uống Primaquine sau khi ăn, không dùng thuốc cho trẻ em dưới 3 tuổi, phụ nữ có thai, người có bệnh gan, thiếu men G6PD (Glucose 6 Phosphate Dehydrogenase). Nếu không có điều kiện xét nghiệm G6PD thì cần theo dõi biến động khối lượng hồng cầu, màu sắc da, màu sắc nước tiểu; khi nước tiểu chuyển màu sẫm như nước vối hoặc màu nước cà phê đen phải dừng thuốc kịp thời.
- Thuốc điều trị thay thế (second line) được sử dụng khi theo dõi trong 3 ngày điều trị bằng thuốc điều trị ưu tiên (first line) mà bệnh nhân vẫn sốt, tình trạng bệnh xấu đi, còn ký sinh trùng sốt rét và diễn biến bệnh nặng hơn thì thay các loại thuốc sốt rét điều trị thay thế có hiệu lực cao hơn. Thuốc điều trị thay thế được dùng là Quinine 30mg/kg/ngày, trong 7 ngày kết hợp với Doxycycline 3mg/kg/ngày, trong 7 ngày; hoặc Qunine 30mg/kg/ngày, trong 7 ngày kết hợp với Clindamycine 15mg/kg/ngày, trong 7 ngày cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 8 tuổi. Thuốc Doxycycline và Clindamycine được đưa bổ sung vào trong danh mục thuốc sốt rét sử dụng.
- Khi bệnh nhân bị mắc bệnh sốt rét thể thông thường, nếu bảo đảm được nguyên tắc phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời thì có thể ngăn ngừa nguy cơ chuyển thành sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong. Nếu thực hiện được khẩu hiệu hành động “Không có sốt rét ác tính, không có tử vong” thì có thể đạt mục tiêu chỉ đạo giảm tử vong của Dự án Quốc gia Phòng chống Sốt rét.